Trích thi tập Nam_trung_tạp_ngâm

Thu chí (Thu đến)Dịch nghĩa:Sông Hương một mảnh nguyệtXưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu.Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh,Thu mới tới trên đầu tóc bạc.Có hình nên phải chịu vất vả,Không bệnh mà lưng vẫn khom khom.Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam,Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng.Quách Tấn dịch thơ:Sông Hương một mảnh nguyệt,Lai láng sầu cổ câm.Chuyện xưa mồ cỏ biếc,Thu mới tóc hoa râm.Có hình thân phải khổ,Không bệnh lưng vẫn khom.Bến Lam Giang ngoảnh lại,Bầy âu vui sớm hôm.
Ngẫu đề (Tình cờ đề vịnh)Dịch nghĩa:Thềm sân trống trơn chỉ có màu đêm bàng bạcNhà sâu thăm thẳm, rèm buông xuốngDưới bóng trăng của nghìn nhà,tiếng chày dập vải nghe rộn rãMột viện gió thổi,tàu chuối khua xào xạc tiêu điềuPhía bắc Hoành Sơn, mười miệng kêu đóiGió đông thành vua, một thân nằm bệnhCác bạn quen biết lấy làm lạtại sao ta sầu mộng.Thiên hạ ai là người không ở trong mộng?Quách Tấn dịch thơ:Trống trải sân thềm đêm nhạt suôngNhà sâu im ỉm bức rèm buông.Tiếng chày lan rộng trăng nghìn nóc,Tàu chuối đìu hiu gió một phòng.Mười miệng đòi cơm ngoài cõi Bắc,Một thân nằm bệnh cõi thành Đông.Người quen trách tớ hay sầu mộngThiên hạ còn ai tỉnh táo không?
Điệu khuyển (Điếu con chó chết)Dịch nghĩa:Thiên hạ có ngựa hay không chết già,Người trinh liệt không chết yên lành.Phàm người sinh ra có khí phách khác thường,Trời đất không có chỗ dung túng.Nghĩ thương mày thuộc giống gia súc,Lông xương cũng đồng với loài ngườiHam tiến không biết dừng,Bỏ mình trong núi lạnh.Bỏ mình chớ than tức,Bao lần thử sức không thành công.Quách Tấn dịch thơ:Tuấn mã không chết già,Liệt nữ không chết yên.Phàm khí phách khác thường,Trời đất hay ghen tương.Thương mày giống gia súc,Cùng người đồng thịt xương.Ham tiến không biết thối,Bỏ mình rừng gió sương.Bỏ mình chớ than tức,Chẳng vẹn công đấu trường[4]